Quản Lý Tăng Ni, Tự Viện Trong Thời Đại 4.0

02_34-0739

Hiện nay, cả nước có 4 Học viện Phật giáo, 08 lớp Cao đẳng Phật học; 32 Trường Trung cấp Phật học và rất nhiều lớp Sơ cấp Phật học tại các tỉnh thành trên toàn quốc. Không thể phủ nhận Ban Giáo dục Tăng Ni đã đào tạo nhiều thế hệ tăng ni có trình độ Phật học và thế học, góp phần không nhỏ vào việc phát triển GHPGVN và xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh. Tuy nhiên, trong thời đại 4.0, chúng ta cần quan tâm đến những vấn đề sau:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
 

Kính bạch: Chư tôn đức Giáo phẩm HĐCM, HĐTS GHPGVN,

Kính bạch: Chư tôn đức Ban Trị sự GHPGVN các tỉnh, thành; Chư tôn đức Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, tăng, ni,

Kính thưa: Kính thưa: Quý vị lãnh đạo Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, Ban ngành đoàn thể các cấp,

Kính thưa: Quý phật tử hiện diện,

Kính thưa Quý liệt vị!

Hôm nay trong không khí trang nghiêm, thanh tịnh, thắm tình đạo vị của Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VIII, thay mặt Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Long An, chúng con kính chúc Chư tôn đức Giáo phẩm HĐCM, HĐTS GHPGVN, Chư tôn đức Ban Trị sự GHPGVN các tỉnh, thành; chư Tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, Đại đức tăng, ni pháp thể khinh an, tuệ đăng thường chiếu; kính chúc chư vị khách quý, quý vị Đại biểu lời cầu chúc vô lượng an lạc, vô lượng kiết tường. Kính chúc hội Đại hội thành công tốt đẹp.

Kính bạch Chư tôn đức!

Kính thưa Quý liệt vị!

Giáo hội Phật giáo Việt nam được thành lập vào ngày 7 tháng 11 năm 1981, từng bước củng cố, phát triển, lớn mạnh về mọi mặt, luôn thể hiện tinh thần “hộ quốc an dân” và thực hiện theo phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa Xã hội”. Với sự phát triển ấy, Giáo hội gồm có 13 Ban, Viện Trung ương và đã thành lập được tất cả 63 Ban Trị sự tỉnh, thành trong cả nước.

Theo thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, hiện nay cả nước có khoảng 53.000 tăng ni; và hơn 18.466 cơ sở tự viện.(1) Qua số liệu này cho thấy mỗi năm số lượng tăng ni, tự viện đều tăng. Đây là tín hiệu hoạt động hiệu quả của các cấp Giáo hội. Tuy nhiên, thời gian gần đây có nhiều tăng ni vi phạm giới luật, pháp luật; tình trạng am thất tự phát, nạn giả sư, “tân đầu lô” có mặt khắp nơi… gây ảnh hưởng xấu đến uy tín Phật giáo nói chung và Giáo hội Phật giáo Việt nam nói riêng.

Để quản lý tăng ni, tự viện hiệu quả hơn trong thời đại “kỹ thuật số”, chúng tôi xin gợi ý một vài giải pháp sau:

1. Quản lý “đầu vào”
 

Tăng là người thay Phật truyền bá chánh pháp; là một trong ba ngôi báu. Vai trò của tăng quyết định sự thịnh suy của Phật giáo. Vì thế, Giáo hội và Ban Tăng sự Trung ương cần quản lý “đầu vào” để tuyển chọn những người “thật tu, thật học” kế thừa sự nghiệp hoằng dương Phật pháp, lợi lạc quần sinh. Giải pháp cần chú ý đến những vấn đề sau:

– Chọn người xuất gia phải trải qua quá trình tập sự 3 năm mới được thọ giới Sa di hay Sa di ni:
 

Hiện nay, có nhiều vị trụ trì tiếp nhận người xuất gia một cách dễ dãi, vào chùa vài hôm là cho phép xuất gia. Xuất gia rồi không tu tập, vi phạm giới luật. Đây là một trong những nguyên nhân khiến hình ảnh tăng bảo mất uy tín và đánh mất lòng tin nơi hàng cư sĩ phật tử.

Theo quy định Nội quy Ban Tăng sự Trung ương, giới tử tu học ít nhất là hai năm (tính từ ngày cấp giấy chứng nhận xuất gia) mới được thọ giới Sa di hay Sa di ni. Chúng tôi xin kiến nghị Giáo hội và Ban Tăng sự Trung ương, có thể gia tăng thời hạn tập sự thêm một năm nữa; tức là tập sự một năm mới được xuất gia, xuất gia hai năm mới được thọ giới Sa di hay Sa di ni. Đây là giai đoạn rèn luyện, thử thách, nếu người nào thật sự phát tâm xuất gia thì họ sẽ vượt qua nếu người nào vì mục đích khác sẽ tự rút lui.

Kế tiếp, chọn người xuất gia “phải đầy đủ các căn, thể chất lành mạnh, không bị bệnh truyền nhiễm, bệnh tâm thần và có phiếu khám sức khỏe tốt”. Các cấp Giáo hội cần quy định rõ người muốn xuất gia cần phải xét nghiệm thêm các bệnh truyền nhiễm, bệnh xã hội như HIV, ma túy…

– Khảo thí giới tử nghiêm túc khi tổ chức giới đàn
 

Mục đích tổ chức giới đàn là truyền trao giới pháp, tuyển chọn người “làm tăng”, nói rộng ra là “tuyển người làm Phật”. Do vậy, công tác tổ chức giới đàn phải thật sự nghiêm túc. Những năm gần đây, tại các tỉnh/thành mỗi ba năm đều tổ chức giới đàn để truyền trao giới luật cho người xuất gia. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho Phật giáo Việt Nam. Tuy nhiên, có nhiều giới đàn còn dễ dãi trong việc xét chọn và khảo hạch, nên có một số giới tử, nhất là giới tử thọ đại giới, chưa đủ điều kiện và phẩm hạnh của một vị tỳ kheo vẫn được thọ giới. 

Để không phương hại đến uy tín của tăng đoàn, làm suy giảm lòng kính tín Tam bảo của hàng phật tử tại gia, chúng tôi xin kiến nghị các cấp Giáo hội khi tổ chức giới đàn cần nên khảo hạch giới tử cẩn thận, vị nào không vượt qua kỳ khảo thí sẽ không cho thọ giới và tuyệt đối không cho giới tử sám hối để được thọ giới. Có thể, Ban Tăng sự Trung ương phối hợp với Ban Giáo dục Tăng Ni soạn thảo một chương trình thống nhất cả nước để khi tổ chức giới đàn Ban Kiến đàn có thể y cứ vào đó ra đề thi khảo hạch giới tử.

– Xem xét lại việc xuất gia gieo duyên:
 

Tại các nước theo Phật giáo Nam truyền như Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia, xuất gia gieo duyên là truyền thống văn hóa và là bổn phận của người đệ tử Phật. Truyền thống này ảnh hưởng không nhỏ đối với đạo đức, lối sống của mọi người. Tại Việt Nam, truyền thống này được Phật giáo Nam tông Khmer ở miền Tây Nam Bộ duy trì. 

Thời gian gần đây, Phật giáo Nam tông Kinh và một số chùa theo Phật giáo Bắc tông cũng có tổ chức xuất gia gieo duyên. Không thể phủ nhận lợi ích của việc xuất gia gieo duyên. Tuy nhiên, có một vài hệ lụy chúng ta cần phải xem xét. Trước tiên, nếu người thật sự phát tâm xuất gia gieo duyên, trải nghiệm đời sống của người xuất gia thì có lợi ích lớn; nếu người vì mục đích khác, mượn việc xuất gia gieo duyên này để khoác áo người tu trở thành “giả sư” chuyên nghiệp, làm một nghề để mưu sinh, kiếm sống thì ảnh hưởng rất nhiều đến hình ảnh của Phật giáo. 

Tại Long An, mỗi khi có lễ trai tăng tại các tự viện lớn, “những vị tăng ni mặc y áo kỳ lạ” thuê cả một xe 50 chỗ đến dự lễ dù không có ai mời. Chúng tôi hỏi, họ nói đang sinh sống tại một thiền viện thuộc tỉnh Đồng Nai. Chúng ta có thể mở những khóa tu ngắn hạn, dài hạn cho phật tử sẽ có lợi ích thiết thực hơn mà không có “di họa” trong tương lai.

2. Quan tâm chất lượng “đầu ra”
 

Nếu “đầu vào” là sự quản lý của Ban Tăng sự các cấp, còn “đầu ra” do Ban Giáo dục Tăng Ni. Khi xuất gia, vị thầy bổn sư hay thầy nghiệp sư tạo điều kiện thuận lợi để vị đệ tử của mình được theo học tại các trường Phật học. Hiện nay, cả nước có 4 Học viện Phật giáo, 08 lớp Cao đẳng Phật học; 32 Trường Trung cấp Phật học và rất nhiều lớp Sơ cấp Phật học tại các tỉnh thành trên toàn quốc. Không thể phủ nhận Ban Giáo dục Tăng Ni đã đào tạo nhiều thế hệ tăng ni có trình độ Phật học và thế học, góp phần không nhỏ vào việc phát triển GHPGVN và xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh. Tuy nhiên, trong thời đại 4.0, chúng ta cần quan tâm đến những vấn đề sau:

– Quan tâm chất lượng đào tạo hơn là số lượng: cần nghiên cứu, học hỏi, hội thảo tìm ra phương pháp hữu hiệu để giáo dục tăng ni chất lượng.

– Quan tâm đến những kỹ năng để thích ứng với bối cảnh hội nhập và phát triển của xã hội: để khi ra trường bất cứ tăng ni nào cũng có thể “hoằng dương Phật pháp, lợi lạc quần sinh”.

– Quan tâm định hướng cho tăng ni sinh sử dụng mạng xã hội một cách hiệu quả, tránh tình trạng đăng tải thông tin, hình ảnh phản cảm.

– Quan tâm đến những kỹ năng thuyết giảng, tổ chức các khóa tu, kỹ năng hành chánh Giáo hội…

– Quan tâm đến sự tu tập: Có thể nói rằng, nhiều trường Phật học hiện nay chú trọng đến việc học, truyền trao kiến thức mà ít quan tâm đến việc tu tập của tăng ni. Theo chúng tôi công tác đào tạo không những chú trọng đến việc truyền trao kiến thức mà rất cần tổ chức tu tập cho tăng ni. Tu tập là phương pháp thể nghiệm những điều đã được học và là định lực để vượt qua mọi thử thách, cám dỗ của cuộc đời.

3. Vai trò của vị trụ trì
 

Trụ trì giữ một vai trò quan trọng trong việc “tiếp tăng độ chúng” và “hoằng dương Phật pháp” tại địa phương. Vị trụ trì như vị lãnh đạo “Giáo hội thu nhỏ”. Nếu vị trụ trì hoạt động hiệu quả, thì Giáo hội phát triển mạnh. Vì thế, khi bổ nhiệm trụ trì, cần phải xem xét tăng ni có đủ “tâm và tầm” hay “tài và đức” để tổ chức điều hành phật sự tại cơ sở. Theo điều 43, mục 1 của Nội quy Ban Tăng sự Trung ương quy định: “Việc bổ nhiệm Trụ trì cần có sự lựa chọn những Tăng, Ni với những tiêu chuẩn như sau: 

Về Phật học, có trình độ Tốt nghiệp Trung cấp Phật học trở lên; về thế học, tốt nghiệp Phổ thông Trung học (tú tài) trở lên; về mặt đạo, đã thọ giới Tỳ kheo ít nhất là 5 năm (hoặc có hạ lạp từ 5 năm) trở lên, có tăng phong phẩm hạnh”.

Thiết nghĩ, trong thời đại đất nước đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng, chúng ta cần nâng cao trình độ của vị trụ trì để có thể đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội. Xin kiến nghị Giáo hội và Ban Tăng sự Trung ương bổ nhiệm cho vị trụ trì có trình độ Phật học từ Cao đẳng hoặc cử nhân và có hạ lạp từ 10 năm trở lên trừ trường hợp đặc biệt thì có thể sớm hơn.

Để giúp cho vị trụ trì quản lý và điều hành tốt phật sự tại cơ sở tự viện, hằng năm chúng ta cần tổ chức thêm các khóa bồi dưỡng hành chính và nghiệp vụ cho vị trụ trì; các khóa tập huấn kỹ năng hoằng pháp, tổ chức các khóa tu…

4. Quản lý tự viện
 

Theo báo cáo tổng kết hoạt động phật sự 6 tháng đầu năm 2017 của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, hiện nay toàn quốc có tổng số18.466 tự viện (15.846 tự viện Bắc tông; 454 chùa Nam tông Khmer; 106 chùa Nam tông Kinh; 541 tịnh xá, 467 tịnh thất, 998 NPĐ; 54 tự viện Phật giáo người Hoa). Trong số các tự viện đó, còn rất nhiều tự viện chưa được bổ nhiệm trụ trì. Chúng ta cần phải xem xét chọn những tăng ni “tài đức” bổ nhiệm trụ trì để có người quản lý điều hành, hướng dẫn tín ngưỡng tại cơ sở. 

Vì sự hưng thịnh và phát triển lâu dài của Phật giáo, chúng ta không nên phân biệt tăng ni “vùng miền”, nếu vị nào có tâm phụng sự hãy tạo điều kiện thuận lợi cho họ. Hiện nay, nhiều tỉnh thành phía Bắc có ít tăng ni nhưng số lượng tự viện rất nhiều, có nhiều vị trụ trì đến vài tự viện, vài chục tự viện… Trụ trì nhiều tự viện thì khó thể quản lý và điều hành tốt các cơ sở ấy. Theo báo cáo của Ban Tôn giáo chính phủ, ở Việt Nam có rất nhiều tôn giáo đang hoạt động, nếu chúng ta không quan tâm đến vấn đề trên thì trong tương lai gần, số lượng tín đồ Phật giáo sụt giảm là điều không tránh khỏi. Nếu tạo điều kiện thuận lợi bổ nhiệm cho tăng ni các cơ sở chưa có trụ trì, sẽ giảm bớt tình trạng am thất tự phát.

Đối với vấn đề am thất tự phát, Giáo hội các cấp không nên mạnh tay dẹp bỏ, phải xem xét từng trường hợp cụ thể. Thiết nghĩ, chúng ta nên dựa trên hai tiêu chí, thứ nhất, tăng ni phải được đào tạo “trường lớp”, có tinh thần phụng sự Phật pháp và nhu cầu tín ngưỡng tại địa phương ấy. Nếu thỏa mãn hai yêu cầu đó, các cấp Giáo hội nên kết hợp với chính quyền tạo điều kiện cho tăng ni, để vừa có cơ sở mới để hoằng dương Phật pháp vừa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của đồng bào địa phương.

Nếu chúng ta ngăn cấm và loại bỏ am thất tự phát, thứ nhất những tăng ni này sẽ không đồng hành với các phật sự tại địa phương, nhiều khi còn bức xúc với Giáo hội; thứ hai khi luật Tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực, tăng ni có thể “đăng ký hoạt động tôn giáo tập trung nơi chưa đủ điều kiện thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc”. Để họ tự sinh hoạt, đăng ký hoạt động tôn giáo tập trung thì các cấp Giáo hội còn khó quản lý điều hành tốt phật sự tại địa phương hơn nữa. Trên đây là giải pháp “Quản lý tăng ni, tự viện thời đại 4.0” mà BTS GHPGVN tỉnh Long An xin trình lên Đại hội. Sau cùng, kính chúc Chư tôn đức tăng, ni: an lạc thân tâm và viên thành các phật sự. Kính chúc quý vị khách quý và toàn thể quý đại biểu: sức khỏe dồi dào, vạn sự kiết tường như ý.

(Theo Phật Giáo Đắk Lắk)

© ChùaVN 2022. All Rights Reserved. Chính sách bảo mật thông tin
Phát triển và cúng dường bởi totdep.vn